Kính chào quý khách đã về thăm lại di tích lịch sử Thành Cổ Quảng
Trị. Tôi xin tự giới thiệu, tôi là: Ngọc Hân, thuyết minh viên tại di tích
Thành Cổ Quảng Trị. Lời đầu tiên thay mặt anh chị em ban quản lý khu di tích,
tôi xin gửi đến đoàn lời chúc sức khoẻ, chúc cho đoàn chúng ta có một chuyến
tham quan thành công và ý nghĩa.
Tôi xin phép được thông qua lộ trình của
đoàn.1. Vào đài tưởng niệm dâng hương cho các Anh hùng liệt sỹ và nghe thuyết
minh về ý nghĩa của đài tưởng niệm.2. Tham quan nhà bảo tàng và kết thúc lộ
trình.A. Tại đài tưởng niệm.Thưa toàn thể đoàn !Chúng ta đang đứng đây, mảnh
đất của 38 năm về trước là một chiến trường khốc liệt đầy máu và lửa. Bằng cuộc
chiến đấu anh dũng kiên cường của quân và dân ta chống trả những đợt phản kích
tái chiếm của địch trong suốt 81 ngày đêm năm 1972 để bảo vệ Thành Cổ và Thị xã
Quảng Trị. Sự kiện lịch sử đó đã góp một phần quan trọng vào thắng lợi trên bàn
hội nghị Pari tạo đà cho công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để
làm nên trang lịch sử ấy hàng ngàn chiến sỹ đã anh dũng chiến đấu và vĩnh viễn
nằm lại nơi đây. Các anh hi sinh nhưng hình hài các anh không còn nguyên vẹn
nữa, máu và xương thịt của các anh đã hoà vào lòng đất cho non sông đất nước có
ngày độc lập, nhân dân được ấm no hạnh phúc.Với những giá trị lịch sử đã được
đúc kết bằng sự hy sinh to lớn của hàng ngàn chiến sỹ, cụm di tích Thành Cổ
Quảng Trị được bộ văn hoá xếp hạng là di tích Quốc gia. Đến đầu năm 1994 được
xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt quan trọng.Hôm nay đoàn chúng ta đến với
Thành Cổ Quảng Trị, không những đến với một di tích lịch sử mà đoàn chúng ta
còn đến với một nghĩa trang, một nghĩa trang không có nấm mồ. Khác với nghĩa
trang liệt sỹ Trường Sơn, nghĩa trang liệt sỹ Đường 9 hay các nghĩa trang khác
thì liệt sỹ nào có mộ liệt sỹ đó cho dù biết tên hay chưa biết tên. Nhưng khi
đến với Thành Cổ Quảng Trị các anh chỉ có một ngôi mộ tập thể chung, một nấm mồ
chung mà thôi. “Đài tưởng niệm trung tâm” là biểu tượng của nấm mồ chung, của
ngôi mộ tập thể đó.Kính thưa đoàn !Đài tưởng niệm được mô hình hoá thành nấm mộ
chung: dưới chân nấm mồ được đắp theo hình bát giác tượng trưng cho bát quái,
bốn lối bậc cấp đi lên tượng trưng cho tứ tượng, tầng mà đoàn dâng hương là
tầng lưỡng nghi. Bên trên là mái đình Việt cách điệu, trên mái đình là bình
thái cực.
Theo quan niệm triết lý phương Đông thì thái cực sinh lưỡng nghi,
lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái vận hành sinh vạn
vật làm vũ trụ phát triển không ngừng.Ngôi mộ tập thể này được thiết kế theo
quan niệm triết lý âm dương mang ý nghĩa sâu sắc là để siêu thoát cho linh hồn
những người đã khuất. Nơi đoàn chúng ta đang đứng gọi là tầng lưỡng nghi, gồm
hai nữa âm và dương: nữa bên nước là nữa âm, nữa bên nền đỏ là nữa dương. Người
ta quan niệm rằng trong cuộc sống này âm dương luôn có mối quan hệ mật thiết
với nhau như: giữa trời và đất, giữa ngày và đêm, giữa người sống và người chết
đó là hình thái âm dương. Và âm dương không bao giờ hoạt động độc lập mà bao
giờ trong âm cũng có dương và trong dương cũng có âm, âm dương luôn hoà quyện
vào nhau.Ngay nữa phần âm người ta cho làm một cây đèn màu đỏ tượng trưng cho
phần dương trong âm. Đèn này có chiều cao 8,1m tượng trưng cho 81 ngày đêm và
được ví như “Đèn thiên mệnh” với chức năng thiêng liêng là chuyển tải linh hồn
các chiến sỹ giải phóng quân từ cỏi âm về cỏi vĩnh hằng.
Trên đỉnh của cây thiên mệnh có ngọn lửa mang ý nghĩa là ánh hào
quang của cuộc chiến 81 ngày đêm quyết tử cho tổ quốc quyết sinh trên chiến
trường Quảng Trị. Giữa cây thiên mệnh người ta làm ba áng mây tượng trưng cho
tam tài: Thiên – Địa – Nhân với ý nghĩa là cầu nối giữa trời, đất và con người.
Theo phong tục của người Á Đông chúng ta thường hay cúng cơm cho người đã khuất
vì vậy trên cây đèn người ta đắp 3 bát cơm để tượng trưng cho ý nghĩa đó.Nữa
phần dương còn lại được lát bằng nền gạch đỏ là màu của sự sống sự sinh sôi nảy
nở. Trên phần dương có một lỗ tròn tượng trưng cho phần âm trong dương, phần âm
trong dương này thông vào lòng nấm mồ. Lòng nấm mồ rỗng có 2 trục đường chính
giao nhau về tứ phương, về mặt tâm linh thì đây là nơi hội tụ linh hồn của các
chiến sỹ tứ phương về nấm mồ chung này. Ở chính giữa là nơi đặt hành trang
người lính: Một chiếc mủ tai bèo, một đôi dép cao su, một bi đông nước, một
khẩu súng AK và một chiếc ba lô. Giản dị và thân thương mà các anh đã làm nên
lịch sử.Ở giữa hai phần âm và dương có đặt một lư hương để cho mọi người khi
đến Thành Cổ thắp một nén hương với lòng thành tâm cầu nguyện mong rằng linh
hồn các anh sẽ từ cõi âm theo đèn thiên mệnh siêu thoát về cõi vĩnh hằng và sẽ
thanh thản nơi chín suối.Phía bên ngoài tầng lưỡng nghi còn có 81 bức phù điêu
là 81 tờ lịch ghi lại từng ngày một của cuộc chiến 81 ngày đêm tại Thành Cổ
Quảng Trị từ 28/06/1972 – 16/09/1972 theo chiều ngược kim đồng hồ.Kính thưa
đoàn !Do hàng ngàn chiến sỹ ta cho đến hôm nay vẫn còn nằm dưới mảnh đất này,
vì thế mà các công trình dưới thời nhà Nguyễn sẽ không còn được phục dựng lại
nữa. Thành Cổ được xây dựng thành một công viên văn hoá, tưởng niệm và tri ân
tôn vinh những người đã vĩnh viễn nằm nơi lại đây. “Cho tôi hôm nay vào Thành
Cổ thắp một nén nhang viếng người nằm dưới cỏ. Cỏ xanh non tơ cỏ xanh non tơ
xin chớ vô tình”. Lời bài hát “Cỏ non Thành Cổ” của nhạc sĩ Tân Huyền cũng
chính là lời nhắn nhủ của cựu chiến binh Phạm Đình Lân từ Hà Nội về thăm lại
chiến trường xưa. Anh đến với đài tưởng niệm cho hàng ngàn đồng đội đang yên
nghĩ vĩnh hằng dưới lớp cỏ non xanh của khu di tích thắp nén tâm hương mà lòng
sót xa nhắn nhủ:“Nhẹ bước chân và nói khẽ thôiCho đồng đội tôi nằm yên dưới
cỏTrời Quảng Trị trong xanh và lộng gióDẫu ồn ào đừng lay động hàng
cây.………………………………….Nhẹ bước chân và nói khẻ thôiThành Cổ rộng sao đồng đội tôi
nằm chậtMỗi tấc đất là một cuộc đời có thậtCho tôi hôm nay đến nghẹn
ngào.”Vâng, đoàn chúng ta vừa nghe giới thiệu về ý nghĩa của đài tưởng niệm.
Bây giờ để hiểu rõ hơn về lịch sử Thành Cổ Quảng Trị cũng như tái hiện lại cuộc
chiến 81 ngày đêm mùa hè lịch sử 1972, xin kính mời đoàn tiếp tục lộ trình tham
quan nhà bảo tàng.B. Tại nhà bảo tàng.Thưa đoàn !Nhà bảo tàng là công trình
được xây dựng mới hoàn toàn và được đưa vào phục vụ khách tham quan từ năm
2002. Với diện tích khoảng 360 m2, nhà bảo tàng gồm có 2 tầng dùng để trưng bày
các bức ảnh và hiện vật chiến tranh.Tầng 1: Gian khánh tiếtVị trí mà đoàn đang
đứng là gian khánh tiết, đây là gian trưng bày những hình ảnh về Thành Cổ Quảng
Trị trong cuộc chiến 81 ngày đêm mùa hè 1972. Trước mặt đoàn là bức ảnh Thành
Cổ do phóng viên Đoàn Công Tính chớp ngày 16/8/1972 tức là Thành Cổ giữa cuộc
chiến 81 ngày đêm. Ngày xưa tường thành cao 4m, dày 12m nhưng với số lượng bom
đạn khổng lồ 328.000 tấn bom mà kẻ thù đã thả xuống đây tương đương với sức
công phá của 7 quả bom nguyên tử loại mà chúng ném xuống Nhật Bản nên những
công trình trong Thành Cổ hầu như bị san phẳng hoàn toàn. Vậy mà các chiến sỹ
của ta vẫn kiên cường bám trụ, sức mạnh bom đạn không đè bẹp được con người.
Nhận định về sự kiện này, Cố Tổng bí thư Lê Duẩn khẳng định: “Chúng ta đã chịu
đựng được không phải vì chúng ta là gang thép, vì gang thép cũng chảy với bom
đạn của chúng. Mà chính chúng ta là những con người, những con người thực sự –
Những con người Việt Nam, với truyền thống 4000 năm đã giác ngộ sâu sắc trách
nhiệm trọng đại trước Tổ Quốc, trước thời đại.”Mùa hè năm 1972, ta tổng động
viên và đưa vào chiến trường 6 sư đoàn chủ lực bao gồm những sư đoàn thép như:
sư đoàn 304, 308, 320, 324, 312, 325…và một số trung đoàn, tiểu đoàn thuộc các
binh chủng khác chính vì thế mà người ta cho làm hai bức phù điêu hai bên để
ghi tên các sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn đã từng tham gia chiến đấu để bảo vệ
Thành Cổ.Và trong mưa bom bảo đạn, khi sự sống và cái chết đang gần kề gang
tấc, vẫn còn đó “nụ cười thách thức bom đạn” của những chiến sĩ giải phóng quân
dưới chân Thành Cổ, không những nụ cười của những anh lính giải phóng quân mà
còn có “nụ cười của ông lão ngư dân Triệu Phong” ngày đêm đưa bộ đội sang sông
Thạch Hãn. Không biết bao chuyến đò mổi ngày, bao nhiêu anh lính được ông đưa
vào chi viện cho Thành Cổ Quảng Trị. Ông lão này đến năm 1975 thì mất, thọ được
72 tuổi còn cô du kích ngồi bên cạnh sau này đã trở thành con dâu ông, cô tên
Nguyễn Thị Thu hiện đang sống ở Thị trấn Ái Tử – Huyện Triệu Phong.Tầng 2 nhà
bảo tàng: Được trưng bày theo 8 mảng sau:Mảng 1: Thành Cổ và thị xã Quảng Trị
trước cuộc chiến 81 ngày đêm.Đây là sơ đồ Thành Cổ do người Pháp vẽ năm 1889.
Thành Cổ Quảng Trị được xây dựng dưới thời nhà Nguyễn. Năm 1809 vua Gia Long
cho đắp bằng đất, 28 năm sau năm 1837 vua Minh Mạng cho xây bằng gạch, thành
được xây dựng theo kiểu kiến trúc Vauban, 4 góc tường thành nhô hẳn ra bên
ngoài để làm pháo đài canh giữ, chu vi thành trên 2160m, diện tích nội thành
16ha, tường thành cao 4m, dày 12m, xung quanh có hào thành, có 4 cửa Đông – Tây
– Nam – Bắc. Thời phong kiến Thành Cổ Quảng Trị là trung tâm kinh tế, chính
trị, quân sự của tỉnh Quảng Trị, là thành luỹ phòng ngự để bảo vệ kinh đô Huế ở
phía Bắc nên trong thành có nhiều công trình kiến trúc được xây dựng như: Hành
cung, cột cờ, dinh tuần phủ, dinh án sát, dinh lãnh binh… Sau khi đặt chính
quyền bảo hộ ở Trung Kỳ, thực dân Pháp cho xây dựng một hệ thống nhà lao kiên cố
ở phía Đông Bắc Thành Cổ, đây là nơi biệt giam các chiến sĩ cộng sản tức là
những ai cứng đầu nhất thì đưa vào lao xá Quảng Trị. Từ năm 1929 đến đầu 1972
hàng ngàn chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước đã bị giam cầm ở đây. Thời Mỹ
nguỵ, Thành Cổ Quảng Trị là một tiểu khu quân sự mạnh nên trong Thành có trận
địa hỏa lực và nhiều trại lính. Trải qua biến cố thăng trầm lịch sử, Thành Cổ
Quảng Trị đã thay đổi về diện mạo và chức năng. Đây là những hình ảnh thị xã
Quảng Trị trước năm 1972 rất sầm uất, có trên 1 vạn ngôi nhà, nhiều công trình
dân sinh và tôn giáo. Khi ta vào giải phóng Quảng Trị tất cả còn nguyên vẹn
nhưng sau 81 ngày đêm tất cả đã bị sang phẳng hoàn toàn.Mảng 2: Các căn cứ quân
sự.Sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết năm 1954, đất nước bị chia cắt làm 2
miền, Quảng Trị trở thành tỉnh địa đầu giới tuyến có vị trí sống còn với đế
quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đây vừa là bàn đạp để thực
hiện âm mưu bắc tiến, vừa là lá chắn để bảo vệ “Biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ
tuyến 17” như Ngô Đình Diệm từng tuyên bố. Do vậy chúng đã tập trung xây dựng ở
đây một hệ thống các căn cứ quân sự lớn mạnh kéo dài từ Đông sang Tây, từ Bắc
xuống Nam. Với hệ thống các căn cứ như vậy, Tổng thống Nichxơn thách thức “Nếu
có cuộc tấn công mạnh của cộng sản thì tuyến phòng thủ này có thể bị chùng chứ
không bị đứt” nhưng rồi cuộc chiến đầu năm 1972 như thế nào, xin mời đoàn sang
thăm phần tiếp theo.Mảng 3: Chiến dịch giải phóng Quảng Trị đầu năm 1972 Bước
sang năm 1972, thấy thời cơ đã đến, Bộ chính trị và Quân uỷ TW đã quyết định mở
chiến dịch giải phóng Quảng Trị. Vào hồi 11h ngày 30/3 chiến dịch được bắt đầu
bằng cuộc tấn công cứ điểm Pulơ (Cam Lộ), bằng đòn đánh bất ngờ, ta đã nhanh
chống làm chủ cứ điểm này. Những ngày tiếp theo ta tiếp tục tấn công vào các
điểm trọng yếu và hàng rào điện tử Macnamara, thừa thắng ta tấn công truy kích
vào vòng trong và trong khoảng thời gian ngắn quân ta đã lần lượt giải phóng
Gio Linh, Cam Lộ, Đông Hà, Triệu Phong. Ngày 1/5 cờ cách mạng đã tung bay trên
nốc dinh tỉnh trưởng ở thị xã Quảng Trị. Tỉnh Quảng Trị cơ bản được giải
phóng.
Mảng 4: Thành Cổ và Thị xã Quảng Trị trong 81 ngày đêm khốc liệt.Sau khi
để mất tỉnh Quảng Trị vào tháng 5, đến cuối tháng 6 Mĩ – nguỵ đã điên cuồng mở
cuộc phản kích tái chiếm tỉnh Quảng Trị với mật danh “Lam Sơn 72”. Trong đó mục
tiêu số 1 là phải chiếm được Thành Cổ Quảng Trị, vì chúng cho rằng: Chiếm được
Thành Cổ là cơ bản chiếm được tỉnh Quảng Trị, tạo ra sức nặng để mặc cả với ta
trên bàn hội nghi Pari. Mĩ – nguỵ mở cuộc phản kích nhằm đạt được những âm mưu
rất xảo quyệt về chính trị, quân sự, ngoại giao: lấy lại tinh thần, tẩy xoá tâm
lý thất bại đang lan tràn trong nguỵ quân, nguỵ quyền nhằm cứu vãn chiến lược
“Việt Nam hoá chiến tranh”, chiếm lại những vùng đất đã mất, thay đổi cục diện
chiến trường nhằm gây sức ép với ta trên bàn hội nghị Pari. Để làm được điều
đó, địch đã huy động vào đây một lực lượng rất lớn gồm 4 sư đoàn, trong đó có 2
sư đoàn thiện chiến nhất của quân lực VNCH là sư đoàn Dù được mệnh danh là
Thiên thần mũ đỏ và sư đoàn Thuỷ quân lục chiến được mệnh danh là Cọp biển.
Cùng sự hỗ trợ tối đa của hoả lực không quân, hải quân Mỹ.Tướng Ngô Quang
Trưởng, chỉ huy cuộc phản kích tuyên bố “ đồng minh sẽ sử dụng tối đa hoả lực
của không quân và pháo binh để nghiền nát Cổ thành Quảng Trị.Và quả thật đúng
như vậy.Thị xã Quảng Trị trong 81 ngày đêm từ 28/6 đến 16/9 được ví như một túi
bom. Trung bình mỗi ngày địch huy động 150-170 lần chiếc máy bay phản lực, 70 –
90 lần chiếc B52 để ném bom huỷ diệt thị xã và Thành Cổ Quảng Trị. Với diện
tích chưa đầy 3 cây số vuông, trong 81 ngày đêm thị xã và Thành Cổ Quảng Trị
phải gánh chịu 328.000 tấn bom đạn, trung bình mỗi chiến sỹ của ta phải gánh
chịu 100 tấn bom, 200 quả đạn pháo. Do vậy, toàn bộ thị xã và Thành Cổ Quảng
Trị đã bị san phẳng hoàn toàn và sự sống đã bị huỷ diệt như thế này đây (xem
ảnh). Và dù trên mình mang đầy thương tích nhưng các anh vẫn chiến đấu ngoan
cường, quyết không rời trận địa, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, cứ người này
ngã xuống người khác lại đến thay. Báo quân đội nhân dân ra ngày 9/8/1972 có
viết “Mỗi mét vuông đất mà các chiến sỹ ta dành được ở Thành Cổ Quảng Trị thực
sự là một mét vuông máu”. Theo thống kê của phòng quân lực, 80% chiến sỹ của ta
đã hi sinh do sức ép của bom đạn, dù đang ngồi trong hầm cũng vỡ máu mũi, máu
tai mà hi sinh.Thưa đoàn!Do hoả lực của địch quá mạnh, phòng tuyến vòng ngoài
của ta bị vỡ dần. Từ đầu tháng 9 đã diễn ra cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt
trong lòng thị xã và Thành Cổ Quảng Trị. Ta và địch giành nhau từng căn nhà,
góc phố, từng mảng tường Thành Cổ. Thời tiết lúc này không thuận lợi, áp thấp
nhiệt đới liên tục xảy ra, nước sông Thạch Hãn dâng cao, cả thị xã chìm trong
biển nước. Lợi dụng tình hình đó địch tăng cường bắn phá vào công sự của ta.
Các chiến sỹ của ta vừa thay nhau tát nước chống ngập công sự, vừa chống trả
địch, suốt ngày ngâm mình trong nước, ăn lương khô, uống nước lã nên sức khoẻ
giảm sút, thương vong rất lớn có ngày trên 100 người. Trước tình hình đó, ngày
16/9 Quân uỷ TW đã ra lệnh rút toàn bộ quân sang bờ Bắc sông Thạch Hãn để bảo
toàn lực lượng. Kết thúc 81 ngày đêm chiến đấu anh dũng kiên cường.Vâng, kính
thưa đoàn !Năm 1972, ta tổng động viên nên phần lớn các chiến sỹ của chúng ta
tham gia chiến đấu ở chiến trường thị xã và Thành Cổ Quảng Trị đều còn rất trẻ
(xem ảnh). Vì tổ quốc các anh sẳn sàng hiến dâng cả tuổi thanh xuân và hạnh
phúc riêng tư của mình. Tiêu biểu ở đây có anh Nguyễn Xuất Hiện tham gia chiến
đấu khi mới 14 tuổi. Kết thúc 81 ngày đêm của cuộc chiến, ta đã tiêu diệt 26
ngàn tên địch. Cuộc chiến 81 ngày đêm tại thị xã và Thành Cổ Quảng Trị cùng với
thất bại của trận Điên Biên Phủ trên không ta buộc địch phải ký hiệp định Pari
vào ngày 27/1/1973.
Mảng 5: Một số hình ảnh sau khi hiệp định Pari được ký
kết.Sau hiệp định Pari ký kết ta cắm cờ lên các vùng đất được giải phóng. Lúc
này cờ của ta và cờ ba que cắm xen kẽ với nhau.Sông Thạch Hãn đã trở thành ranh
giới chia cắt giữa hai bên. Và ở đây đã diễn ra việc trao trả tù binh từ hai
phía. Hàng ngàn chiến sĩ của ta đã được trở về trong vòng tay đồng đội và sự
đón chào nồng nhiệt của nhân dân ta.Mảng 6: Đặt trụ sở chính phủ CMLTCHMN Việt
Nam ở Cam Lộ.Tỉnh Quảng Trị lúc bấy giờ mới giải phóng đã rất vinh dự được chọn
làm nơi đặt trụ sở chính phủ CMLTCHMN Việt Nam tại thị trấn Cam Lộ – huyện Cam
Lộ vào tháng 6/1973.Mảng 7: Thị xã Quảng Trị sau ngày đất nước được thống nhất
.Sau ngày đất nước thống nhất , Quảng Trị đã bắt tay xây dựng lại quê hương. Từ
đống đổ nát hoang tàn sau chiến tranh, nhiều công trình mới đã được mọc
lên.Mảng 8: Di vật liệt sỹ và một số hoạt động tri ân.Chiến tranh đã lùi xa vào
quá khứ, nhưng nổi đau thời hậu chiến thì vẫn đeo đẵng trong mỗi người dân
chúng ta.
Biết bao gia đình phải chịu cảnh mẹ mất con, vợ mất chồng, con phải
mồ côi bố.
Hiện tại nhà bảo tàng Thành Cổ đang trưng bày hai di vật của hai
liệt sỹ rất tiêu biểu xúc động. Xin mời đoàn sang tham quan phần di vật.Di vật
của liệt sỹ Lê Binh Chủng, quê ở Quỳnh Mỹ – Quỳnh Lưu – Nghệ An.Vào năm 2000
khi đang thi công công trình đường ống dẫn nước ở phía Tây Thành Cổ đơn vị thi
công đã phát hiện một hầm chữ A trong đó có 5 hài cốt, hết 4 hài cốt chưa xác
định được danh tính, chỉ có một số giấy tờ, 2 lá thư và hai tấm hình còn nguyên
vẹn vì được gói rất kỷ trong bao ni long. Đó là di vật của liệt sỹ Lê Binh
Chủng – Chính trị viên tiểu đoàn 3 bộ đội địa phương Quảng Trị. Qua quá trình
tìm hiểu chúng tôi mới biết rằng: Năm 1970 trên đường vào chiến trường miền Nam
chiến đấu anh Chủng có ghé qua miền Tây Quảng Bình (Xã Đông Trạch – Bố Trạch –
Quảng Bình). Ở đó anh có quen và yêu chị Phạm Thị Biển Khơi. Đơn vị đứng ra tổ
chức lễ cưới cho anh chị và sau đó anh tiếp tục vào chiến trường Quảng Trị nơi
diễn ra cuộc chiến 81 ngày đêm khốc liệt và anh đã anh dũng hi sinh ở đó. Ở quê
nhà chị Khơi sinh được cháu trai và đặt tên Lê Quảng An (Quảng Bình – Nghệ An).
Khi nhận được tin anh hi sinh chị rất buồn và chị quyết định đưa cháu về quê
nội. Nhưng đáng tiếc gia đình chồng không nhận con dâu và cháu nội vì chưa nghe
tin anh cưới vợ bao giờ. Chị lại thui thủi một mình đưa con về sinh sống ở quê
ngoại. Và đến năm 2000 sau khi nhận được di vật của anh gia đình mới nhận con
dâu và cháu nội. Anh Lê Quảng An sau 28 năm mới được công nhận là con liệt
sỹ.Kính thưa đoàn !Trong số hàng ngàn chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến 81
ngày đêm ở thị xã và Thành Cổ Quảng Trị, có rất nhiều học sinh, sinh viên của
các trường miền Bắc. Họ đã xếp bút nghiêng lên đường chiến đấu theo tiếng gọi
thiêng liêng của Tổ quốc. Trong đó có liệt sỹ Lê Văn Huỳnh, quê xã Lê Lợi –
Huyện Kiến Xương – Tỉnh Thái Bình mà di vật của anh đang được trưng bày ở
đây.Anh Lê Văn Huỳnh khi đó là sinh viên năm thứ 4 trường ĐHXD Hà Nội. Có vợ là
Đặng Thị Xơ (cùng quê với anh). Sau khi cưới vợ được 6 ngày, chưa kịp có con
thì tháng 5 -1972 anh đã theo lệnh Tổng động viên vào tham gia chiến đấu ở
chiến trường Quảng Trị. Đầu tháng 9/1972 anh nhận được lệnh làm nhiệm vụ đưa
hàng tiếp tế qua sông Thạch Hãn. Như biết chắc rằng rồi đây mình sẽ hi sinh,
anh đã bình thản làm cho mình một tấm bia bằng tôn ghi rõ họ tên, ngày tháng
năm sinh, quê quán của anh. Sau đó anh viết thư vĩnh biệt gửi về cho gia đình.
Thư anh viết rất xúc động, đầy trách nhiệm trước gia đình và Tổ quốc. Tôi xin
trích đọc một số đoạn như sau:"Quảng Trị ngày 11/9/1972Toàn gia đình kính
thương!Hôm nay, con ngồi đây biên vài dòng chữ cuối cùng phòng khi đã đi nghiên
cứu bí mật trong lòng đất thì gia đình khỏi thấy đó là điều đột ngột.Mẹ kính
mến!Lớn lên trong tay mẹ từ khi còn trứng nước, chưa đền đáp được công ơn to
lớn đó của mẹ thì đứa con út của mẹ đã phải đi thăm bố con rồi. Thư này tới tay
mẹ chắc mẹ buồn lắm. Lòng mang nặng đẻ đau, giọt máu đào hơn ao nước lã, lá
vàng còn ở trên cây – lá xanh rụng xuống trời ơi hởi trời. Con của mẹ đã đi xa
để lại cho mẹ nổi buồn nhất trên đời. Con rất hiểu đời mẹ đã khổ nhiều, nay bao
hy vọng nuôi con khôn lớn, song vì đất nước có chiến tranh, thì mẹ ơi hãy lau nước
mắt cho đời trẻ lâu, sống đến ngày đón mừng chiến thắng. Con đi, mẹ ở lại trăm
tuổi bạc đầu, coi như con lúc nào cũng nằm bên mẹ, mẹ đừng buồn cho linh hồn
con được thoải mái ra đi. Bố con đã đi xa để lại cho mẹ biết bao khó nhọc, nay
con đã đến ngày khôn lớn thì …Thôi nhé mẹ đừng buồn, coi như con đã sống trọn
đời cho Tổ Quốc mai sau."Đoạn thư anh viết cho người vợ mới cưới của
mình."Em yêu thương!Anh biết em sẽ không đọc nổi lá thư này vì biết bao
nổi buồn đang đè nặng lên tấm thân người con gái trẻ tuổi như em. Nhưng em ơi
hãy bình tĩnh làm theo lời anh căn dặn, còn ngày anh đi xa là ngày anh đề ngoài
phong bì mà nhờ bạn anh gửi giúp. Em sẽ đọc thư này cho mọi người trong gia
đình nghe trong buổi lễ truy điệu anh. Cho anh gửi lời chúc sức khoẻ tất cả những
người quen thuộc trên quê hương trong buổi lễ truy điệu lịch sử này. Thôi nhé
em đừng buồn, khi được sống trong hoà bình hãy nhớ tới lòng anh."Đoạn thư
anh viết cho bố mẹ vợ:"Thầy mẹ kính mến!Con mong thầy mẹ đừng buồn nhiều,
mạnh khoẻ cho đời mãi mãi kéo dài đón mừng ngày thống nhất. Thầy mẹ ạ! Chúng
con sống với nhau chẳng được bao lâu,thì nay đã…Chắc em nó buồn lắm, thầy mẹ
động viên em thay con. Theo con đời em con trẻ lắm, nếu ai người ta thông cảm
thầy mẹ động viên em nó nên đi thêm bước nữa. Cứ ngày này thầy mẹ hãy nhớ tới
con. Thôi tất cả những gì đã qua là vào dĩ vẳng ra đi con mong thầy mẹ khoẻ,
sống lâu mãi mãi. Cho con gửi lời chào bà, các cậu và họ hàng thân thuộc.Sau
khi hoàn thành bức thư, đúng 3 tháng 20 ngày sau tức ngày 2/1/1973 anh Lê Văn
Huỳnh đã anh dũng hi sinh khi đang làm nhiệm vụ.Vào năm 2002, hài cốt của anh
đã được tìm thấy bên dòng sông Thạch Hãn ở thôn Thượng Phước, xã Triệu Thượng,
huyện Triệu Phong và được đưa ra an táng tại quê nhà. Chị Đặng Thị Xơ vẫn ở vậy
ngày đêm hương khói cho anh."- Một số hoạt động và công tác tri ân. -Thưa
đoàn !Sông Thạch Hãn cách phía Tây Thành Cổ khoảng 300m. Trong 81 ngày đêm của
cuộc chiến, đây là đường tiếp tế nhân lực, vật lực duy nhất cho mặt trận thị xã
và Thành Cổ Quảng Trị. Để cắt đứt tuyến đường tiếp tế đó, địch tăng cường ném
bom bắn phá, rất nhiều chiến sỹ của ta đã hi sinh trên sông, sông Thạch Hãn mùa
hè năm 1972 thực sự là một dòng sông máu. Sau ngày đất nước được giái phóng,
với truyền thống uống nước nhớ nguồn, hàng năm cứ đến ngày 30/4, 27/7, 22/12
nhân dân Quảng Trị đều tổ chức thắp nến, thả hoa trên sông Thạch Hãn để tưởng
nhớ, tri ân những chiến sỹ đã ngả xuống trên dòng sông và đây đã trở thành lễ
hội truyền thống.Cựu chiến binh Lê Bá Dương về thăm lại chiến trường xưa, sau khi
vào thành cổ thắp nén hương cho đồng đội, ông ra đứng bên dòng Thạch Hãn mà
nhắn nhũ rằng:Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ.Đáy sông còn đó bạn tôi nằmCó tuổi
đôi mươi thành sóng nướcVỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm.Đó cũng chính là toàn bộ nội
dung về lịch sử Thành Cổ Quảng Trị mà tôi đã giới thiệu với đoàn, một lần nữa
thay mặt Ban quản lý khu di tích xin gửi đến đoàn lời chúc sức khỏe và có một
chuyến tham quan thật an toàn.
KẾT LUẬN Vâng! Chiến tranh đã lùi xa, nhưng dư âm của cuộc chiến 81
ngày đêm mùa hè lịch sử thì vẫn còn đó. Thành Cổ Quảng Trị và dòng sông Thạch
Hãn trở thành tượng đài lịch sử trong tâm khảm đồng bào cả nước. Nơi đây mãi là
cội nguồn cho những xuộc hành hương ngược dòng kịch sử cho những ai muốn chiêm
nghiệm lẽ sống và sự hy sinh bất tử.Nhà văn Nguyễn khải đã từng viết : “Sự sống
nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ những hy sinh gian khổ” phải
sự sống của Quảng Trị, sự sống của Thành Cổ đã hồi sinh từ biết bao khó khăn
gian khổ của các chiến sĩ và đồng bào cả nước đã chiến đấu anh dũng để giành
lại độc lập hòa bình cho Tổ quốc. Chúng ta, đặc biệt là thế hệ trẻ của đất nước
hãy biết trân trọng sống sao cho xứng đáng với những công lao to lớn đó của các
anh để mai này dựng xây đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.Một lần nữa
tôi xin chân thành cảm ơn quý khách đã về thăm lại vùng đất đất lửa, hy vọng
một ngày gần nhất sẽ sớm gặp lại đoàn của mình. Kính chúc quý khách nhiều hạnh
phúc, nhiều niềm vui và một chuyến đi nhiều ý nghĩa.